Cấu trúc tổng quát Operon

Một ôpêron được tạo thành từ 3 thành phần cơ bản:

1: RNA Polymerase, 2: Chất ức chế, 3: Promoter, 4: Operator, 5: Lactose, 6: lacZ, 7: lacY, 8: lacA. Trên: Gen bình thường thì sẽ bị tắt. Không có lactose để kết thúc sự ức chế, vì vậy chất ức chế liên kết với operator, điều này cản trở RNA polymerase liên kết với promoter và tạo ra lactase. Dưới: Gen được bật. Lactose ngăn cản sự ức chế, cho phép RNA polymerase liên kết với promoter, và biểu hiện gen, tổng hợp lactase. Cuối cùng, lactase sẽ tiêu hóa tất cả các lactose, cho đến khi không có gì liên kết với chất ức chế. Sau đó, chất ức chế sẽ liên kết với operator, ngừng sản xuất lactase.
  • Promoter tức vùng khởi động - thực chất là trình tự các nuclêôtit nhất định để cho enzim phiên mã ARN pôlymeraza nhận biết và bám vào. Phân tử ARN pôlymeraza có tiểu đơn vị chứa trình tự các nuclêôtit tương ứng với vùng khởi động này. Dù ôpêron đóng hay mở, enzym này vẫn có thể nhận biết và bám vào vùng đó, nhưng chỉ hoạt động khi ôpêron mở, sau đó bắt đầu phiên mã. Trong phiên mã tạo ra ARN, thì vùng khởi động (promoter) chỉ ra gen nào cần sử dụng để tạo ra mARN (RNA thông tin), nhờ từ đó kiểm soát các prôtêin tế bào tạo ra.
  • Operator tức vùng vận hành - thực chất là trình tự các nuclêôtit nhất định của ADN nằm sát ngay sau vùng khởi động. Nếu vùng vận hành có một chất (thường là protein) liên kết vào đó, thì ôpêron bị đóng, nên chất này gọi là chất ức chế (repressor). Nguyên nhân đơn giản của sự "đóng cửa" ôpêron này là chất ức chế đã chắn đường (như chiếc barie), không cho ARN pôlymeraza trượt dọc cụm gen ở ôpêron.[2][5][18] Nói cách khác, chất ức chế ngăn cản về mặt vật lí hoạt động của phân tử ARN pôlymeraza.
  • Các gen cấu trúc - các gen được đồng điều hòa bởi ôpêron.

Không phải luôn luôn được bao gồm trong operon, nhưng quan trọng trong chức năng của ôpêron là một gen điều hòa, một gen được biểu hiện liên tục mã hóa cho protein ức chế. Gen điều hòa không cần phải ở trong, liền kề, hoặc thậm chí gần ôpêron để kiểm soát nó.[19]